Ở Việt Nam ta, các vị lương y (cụ Lang, Đông Y sĩ) đã sử dụng dược thảo từ thời lập quốc với hai loại thuốc: thuốc Bắc, cây cỏ nhập từ Trung Hoa; thuốc Nam dùng cây cỏ thổ sản quốc gia, trong những bài thuốc gia truyền, theo kinh nghiệm qua nhiều thế hệ. Các vị danh y như Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ông đã để lại những tác phẩm đông y giá trị. Bộ sách Nam Dược Thần Hiệu của Tuệ Tĩnh viết vào thế kỷ 17 liệt kê trên năm trăm vị thuốc có gốc thảo mộc và động vật và ông chữa bệnh theo phương châm “ thuốc Nam Việt chữa người Nam Việt ”.
Ai Cập đã tìm ra tài liệu cho thấy dược thảo được dùng từ năm 2000 trước TC. La Mã – Hi Lạp đã dùng dược thảo từ thời Aristole, và sách dược thảo của Dioscorides viết vào thế kỷ thứ nhất sau TC có ghi trên 600 vị thuốc cỏ cây. Nền y học Ayurvedic Ấn Độ cũng dùng dược thảo từ trên năm ngàn năm để hỗ trợ việc trị bệnh và phòng bệnh do sự mất thăng bằng của tâm trí.
Ở Pháp, nhất là Đức, các bác sĩ y khoa biên toa Âu dược chung với dược thảo. Tại Đức, một ủy ban gồm nhiều bác sĩ, dược sĩ, chuyên gia về chất độc đã hoàn thành một tài liệu với trên 400 chuyên đề tả công dụng, tác dụng phụ, phân lượng của nhiều dược thảo. Bên Anh, một công trình tương tự cũng đã được hoàn tất.
Bên Mỹ, dược thảo rất thông dụng với thổ dân bản xứ. Năm 1716, nhà thám hiểm Pháp Lafitau đã tìm ra sâm Mỹ ở vùng New World. Hiện nay sâm là tài nguyên xuất cảng quan trọng của Hoa Kỳ. Cơ quan The American Botanical Council, Austin-Texas, dựa vào hai công trình của Đức và Anh, đã soạn thảo một tài liệu nói về 26 dược thảo thông dụng.